Ông Đạo Vỉa Hè

 

 

Ông đạo. Hai từ ngữ khả kính đó đúng với những vị chân tu, riêng Ông - đạo - Vỉa - Hè thì chẳng ăn nhậu với tôn giáo nào cả, không dây mơ rễ má với giáo phái nào cả! đơn giản là nhìn cái tướng người đàn ông ngũ thập tri thiên mệnh giống như một ông đạo thì Vỉa hè gọi là ông đạo. Ông đạo tuổi mùi, sinh năm 1955 tại Phú Quốc. Ông cụ thân sinh ra ông đạo làm việc trên đảo cho cho chính quyền Tổng thống Thiệu, bà cụ thân sinh ra ông đạo là cô giáo. Xuất thân của ông đạo có chiều sâu hơn là bên nội từ Bắc di cư vào, ông nội của ông đạo là một nhà Nho và bên ngoại cũng rất dư chữ nghĩa. Ông ngoại của ông đạo lại từng đi du học bên Tây về nên ông đạo được tiếp xúc với văn hóa đông - Tây, được giáo dục đề huề từ nội, ngoại khi còn rất trẻ. Cứ tưởng tượng ông là con đầu lòng, cháu đích tôn của hai giòng họ môn đăng hộ đối thì kiến thức phải biết, uyên bác của ông đạo đã sẵn sàng thành nhơn đáng kính trong thiên hạ. Ai dè! Quốc biến xảy ra khi ông đạo đang học năm thứ hai ở đại học Văn Khoa Sàigòn. Giấc mơ làm người của ông đạo tan theo mây khói.

 

… Trả lại em yêu khung trời đại học… Từ gĩa bạn bè, ngôi trường thân yêu, con đường Duy Tân cây dài bóng mát… những con đường khác với quê ông mà người ta gọi là Sàigòn. Ông đạo về đảo với gia đình sau cơn quốc biến. Bên ngoại đã ra khơi vì ông ngoại là người theo Tây học - thoáng rộng, kẹt cái ông nội bảo thủ nhà Nho nên gia đình mới kẹt lại Việt Nam. Sau đó là trường ca ai oán như mọi gia đình có công "phản cách mạng"! Cha ông đạo lên đường với những người thuộc về chế độ cũ. Ông đạo thành lao động chính trong nhà nhưng chàng thư sinh Văn Khoa trói gà không chặt thì làm được gì ngoài việc… mần thơ.

 

Chính quyền địa phương trên đảo gọi ông đạo lên Uy ban để thi hành công vụ tạp dịch cho bõ ghét! Ông đạo ngậm đắng nuốt cay - thế thời. Một bạn hữu của mẹ ông đạo bên ngành Giáo dục, kéo ông đạo qua bên Giáo dục để làm thầy giáo, gõ đầu trẻ. Ông đạo bằng lòng với 13 kí gạo, cộng nhu yếu phẩm (nửa kí thịt heo, đường, xà bông…) mỗi tháng, đem về phụ giúp gia đình trong lúc sa cơ. Chờ thời.

 

Lại chính quyền địa phương sách nhiễu, không để yên cho ông đạo tu la-ve. Họ kiểm điểm ông đạo về việc dạy học không đúng chương trình quy định. Tư tưởng không thông về đường lối chính sách… Tóm lại, họ đang cần người đưa đi chiến trường Tây bắc; Tây nam. Ông Bí thư chi bộ địa phương xác quyết với ông đạo là ông đạo đi Nghĩa vụ quân sự  thì chính quyền địa phương gởi đơn kiến nghị khoan hồng lên Trại cải tạo để xin cho cha ông đạo về sớm - lo gia đình.

 

Vậy là ông đạo lên đường vì chữ "hiếu". Nhưng than ôi! Cha vẫn biền biệt sơn khê còn ông đạo ê chề không kém. Lý lịch ông đạo không đủ tư cách cầm súng nên người ta nhận vô tay ông đạo cây cuốc để tăng gia sản xuất nuôi quân. Có khi trao vô tay ông đạo cái leng ống để đào kinh đắp đập trên những nông trường Thanh niên xung phong. Ông đạo đã không còn dáng vẻ thư sinh như ngày nào bởi đồng chua nước mặn, cái ăn cái mặc bây gìơ đều là xa xỉ đối với một người sa cơ lỡ vận. Ông đạo sống thầm lặng với mưu toan thâm u trong đầu là chờ ông gìa về, sau đó… "dông". Ông đạo sợ đưa gia đình "vọt" sớm thì chính quyền mới lại trút giận lên cụ thân sinh đang trong Trại cải tạo. Cứ lẩn quẩn trong cái khó bó cái khôn, mỗi lần về phép thăm nhà, ông đạo xót xa thêm với gia cảnh của mình nhưng ráng 'nhẫn' để đợi cha về rồi tính!

 

Chuyện gia phong xa xút bởi những nguyên nhân khách quan chứ bề trong thì gia đạo vẫn vững. Ông đạo luôn tự hào về nề nếp gia đình, đặc biệt là bà cụ thân sinh ra ông đạo, người mà có khi thấp thoáng trong thơ ông như một giai nhân, có khi là hiện thân của Phật Bà Quan Am mà ông là chúng sanh đang khổ nạn. Trích đaọ luận của ông thì rõ: "Cái bao tử không no thì người ta sẽ kiếm củ khoai, con cóc, con nhái… đỡ dạ, nhưng trái tim nhạy cảm của ông, không có mẹ thì hỏng! (Hỏng mẹ nó rồi từ khi Phật bà bỏ lại chúng sanh vì cơ cực đã đưa người về cõi Phật)". Chỉ có mẹ là người thấu hiểu và chia sẻ tới tận cùng của những tháng năm không quên. Những năm tháng cơ man trên nông trường Thanh niên xung phong, có lúc ông nhớ mẹ da diết, nhớ nhà, nhớ đảo… người tình học trò đã chết ngắc trong ông khi ông chỉ còn là người nông dân biết đọc, nhìn về Sàigòn thấp thoáng em yêu trong vành nón tai bèo - thời cơ chủ nghĩa, lòng ông không sinh hận nên càng buồn hơn. Ông nhớ không ít là con chó Phú Quốc của gia đình mà ông luôn coi là người bạn nhỏ, người bạn của tuổi thơ không còn nữa. Sau cuộc bể dâu, Ông đạo dồn hết tình yêu còn lại cho đôi vai gầy và đôi mắt sâu của mẹ, nhưng lòng tin ở con người thì ông đặt hết vào con chó, bởi đảo quốc quê ông chỉ có con chó không trở mặt - thay lòng đổi dạ với ông. Nói về con chó Phú Quốc nói chung; con chó của gia đình nói riêng, ông đạo nói với hết lòng thương kính một sinh vật trí dũng song toàn, đặc biệt là tình cảm và lòng thủy chung vô bờ của trái tim - bốn chân. Ngoài mẹ và con chó, ông còn bao nhiêu tình cảm, ông cho hết vào hũ nước mắm - đặc sản quê nhà. Tóm lại: Mẹ, con chó và nước mắm Phú Quốc vững như kiềng ba chân, bất di bất dịch trong thương tâm ông đạo.

 

Ông thường nói trên bàn nhậu, nói về nước mắm Phú Quốc như người Quảng nói về mì Quảng. Không cần diễn giải cũng rõ: Nước (H2O) của xứ Quảng mới làm ra được sợi mì Quảng chánh hiệu. Nước chỗ khác (Sàigòn, đà Lạt…) chỉ làm ra những sợi mì Quảng… lai. Trở lại với ông đạo và nước mắm Phú Quốc, lon bia đầu thì người ta cho cá và muối vào lỗ trù, vài hôm nước mắm nhỉ ra lỗ lù… gọi là nước mắm nhỉ. Nước mắm của chàng thư sinh Văn khoa rất ư là khó hiểu! Vài lon thì chẳng biết cho cá với muối vào lỗ nào và nhỉ ra lỗ nào? Nên chung cuộc nhậu thì ông mang tên: "Ông đạo Lù". Chỉ dễ hiểu là "áo mẹ mùi nước mắm / thơm mơ con đêm dài". Tôi nhớ lõm bõm thơ ông khi nghe mùi nước mắm! Ai nói nước mắm hôi là kẻ thù không đội trời chung với ông đạo. Tóm lại vậy đi cho dễ bề sổ sách. Ông thề với lòng sẽ nhớ đến chết mùi nước mắm quê ông cũng chính là mùi áo mẹ phụ bà ngoại nấu nước mắm cho nhà ăn, có dư thì cho, bán lại theo lối trao đổi sản phẩm thủ công với bà con lối xóm để cải thiện bữa cơm gia đình. Và đó là thứ nước chấm vô địch trên đời, cũng là để đấu với mì Quảng của cô gái Quảng đã tranh luận không lại ông (mì Quảng và nước mắm Phú Quốc, cái nào mới là đặc sản quê hương trong lòng người viễn xứ?) Cô ta tranh luận thua rồi xử hèn là bỏ ông đạo bơ vơ trên giòng đời nghiệt ngã tha hương. Sự hiện diện của người đẹp xứ Quảng trong thơ ông không mặn mà như nước mắm: "…tìm một nửa giạt trôi hoài không gặp / có một lần đã gặp chẳng thành nguyên / hồn tôi ba góc là điên / phần còn lại mãi triền miên tìm người". Thì ra người tình trọ trẹ chưa phải là nửa mà ông đạo đi tìm, phải mở ngoặc là tìm trong vô vọng. đời ông đạo không bao gìơ còn được ăn thứ nước mắm nấu ra từ tình thương biển cả của hai người nữ mà ông kính yêu nhất trên đời là mẹ và bà ngoại. Cũng như tình ông đạo, không hề thuộc về người đẹp… hay cãi. Dù người đã đi, ừ nhỉ người đi thật! Có một giai nhân nào đó trong tim ông? "Giai nhân tìm hoài không gặp". Thứ, thứ hai đáng nhớ nhất trong lòng ông là con chó Phú Quốc, con chó của gia đình. Một lần ông về thăm nhà, bà nội ông đã nói: "Con chó gìa của gia đình cũng là người bạn nhỏ của ông đang lâm trọng bệnh, nhưng có lẽ nó đợi ông đạo về để nói lời vĩnh biệt mới cam lòng ra đi." Và đúng là con chó ứa nước mắt, ứ ứ lên vài tiếng lúc ông về đến nhà. Nó ra đi không oán than thân phận hay thời thế gì nữa! Nó bị bộ đội bắn bể bụng đã hai hôm, vậy mà cố lết về nhà để chờ ông đạo chứ nhất quyết không làm rựa mận cho bộ đội cụ Hồ. Còn ông như linh tính được gia đình có chuyện nên mò về. Không ngờ chỉ là chuyện con chó bị nạn, nhưng trong suy nghĩ riêng ông thì viên đạn AK đã sốc thẳng vào trái tim, óc não người trí thức trẻ.

 

Ông đạo đem theo con chó Phú Quốc con (con của con chó gìa đã chết) làm bạn trên những bước đường lưu lạc trong màu áo Thanh niên xung phong và vành nón tai bèo, "đôi dép râu giẫm tan đời trai trẻ / vành nón tai bèo úp gọn cả tương lai". đời người thanh niên xung phong đã không đủ ăn thì lấy gì cho chó ăn? Nhưng trong hoàn cảnh nào của cuộc sống cũng có những tấm lòng nhân hậu - chính là chị nuôi (người nữ nấu cơm) của đại đội. Cô Yến thường lặng lẽ chia cho con chó con nửa phần ăn của cô trong lén lút vì không có lý do gì mọi người luôn luôn đói mà con chó được ăn. Con chó trên nông trường chỉ có một quyền hạn duy nhất là trở thành thức ăn cho con người bằng chính thịt xương của nó. Ông đạo thường nói về "cuộc tình chó con của tôi" bằng hết lòng trân qúi, tha thiết. Nước mắt ông không nhỏ với cường quyền, bạo lực để không tiếc với tình người nhân bản. Tôi thường đùa để giấu giọt rơi nhưng trong sâu thẳm của tâm hồn đa-hệ-lụy, tôi thương ông lắm! Chuyện ông đạo kể: "Cô Yến mới tròn 19 tuổi, cha là đại úy Biệt động Quân, chết trận trong chiến tranh năm '74 khi cô Yến mới 13. Sau khi hòa bình lập lại, mẹ cô đi thêm bước nữa với một người cán bộ ngoài Bắc vào. đó là lý do cô Yến bỏ nhà đi Thanh niên xung phong để thể hiện sự đối kháng người sống; tấc lòng trung với người đã chết trong gia đình cô Yến, làm ông đạo kính nể.

 

Ở nông trường, cô Yến học ông đạo về văn hóa - tư tưởng, ngoại ngữ…(Anh, Pháp gì ông cũng đọc thông viết thạo, lại giỏi Hán văn) kể ra, kiến thức ông uyên thâm. Ong học cô Yến về lòng vị tha, tính thương người, thương súc vật. Con chó được cô dẫn đi tắm mỗi chiều ngoài bờ kinh, tối được ngủ trong hơi ấm của người con gái mà ông đạo rất… thương thầm. Ông thường thấy hạnh phúc thấp thoáng qua bờ vai, mái tóc của cô trong những giấc chiêm bao nửa đêm về sáng và thường tan biến theo sự cào cấu của cái bao tử lép trong những đêm nông trường không ngủ. Có một thời như thế! Thường là câu kết luận của ông đạo khi nói về qúa khứ xa xưa.

 

Mùa Xuân năm ấy, đến. Cô Yến được đơn vị cho về nhà ăn Tết. Khi đi, cô đã dặn dò rất kỹ: "Anh phải trông… con. Coi chừng… 'ma qủy' ăn thịt nó! Em có phép hai tuần, nhưng về thăm ngoại em chừng một tuần là em trở lại!... " Ông đạo thêu dệt biết bao nhiêu mơ tưởng trong đầu. Nào là… anh phải trông "con" mà không có chữ "chó". đứa con trời cho hai người… ý nhị vậy sao?! Nào là em có hai tuần phép nhưng đi một tuần là trở lại! Cô cho ông một tuần đấy chăng?! Một tuần lập lờ như dấu chấm than (!) biết phải hiểu sao đây?

 

Những giấc mộng lứa đôi làm lôi thôi ông đạo. Ông bất an trong lòng nên theo bạn bè đi nhậu cho khuây khỏa khát khao, nhất là không khí Tết đã đưa vô nông trường những lọn gío se se đông - xuân nhớ nhà. Đi nhậu cũng tới lúc hết tiền. Nửa đêm mò về doanh trại trong men say, không thấy con Phú Quốc, ông đạo linh tính được chuyện không lành nên đi kiếm nó. Mùi rượu thịt dẫn đường ông đạo đến ngay chỗ ở của tên đại đội trưởng. Hắn cũng chếnh choáng nên quyền uy tăng lên gấp bội, hắn tự cho mình quyền thanh lý con chó của con Yến chứ không phải của ông đạo. Lý do đơn giản là con chó chẳng làm được gì ngoài việc hao tổn lương thực của nông trường, đã có người thấy cô Yến lén cho con chó ăn bo bo của tập thể. Ông đạo cũng chếnh choáng nên không kiêng dè gì nữa! Ông bửa vào đầu tên đại đội trưởng một cây xẻng, cán xẻng gẫy đôi đủ biết sức lực bình sinh của thư sinh đã dồn hết như lòng căm phẫn. May là nó không ngờ ông dám, chứ nó có AK. Số ông đạo kể ra cũng còn lớn.

 

Hậu quả là ông đạo bị nhốt tù. Hai hôm sau, kẻ cả gan ăn thịt "đứa con tinh thần" của chuyện tình ông đạo không chết nên ông được ra tù nhưng đi đầy thì đúng hơn là thi hành lệnh thuyên chuyển. Ông đạo không có quyền chờ cô Yến trở lại để nói lời nào. Một chút tự do cuối cùng cũng đã mất vì từ lúc quay đi, ông đã thành lao công chiến trường ở mặt trận Tây nam. Cuộc tình trong mơ đã chết theo con chó của hai người vì ai cũng thấp cổ bé họng.

 

Hai năm phiêu bạt phương trời Tây nam đầy súng đạn và chết chóc. Ông đạo về lại nông trường Nhị Xuân để tìm người xưa nhưng không còn đó nữa. Trước lúc ông đạo lên đường vượt biển, ông đi Lâm đồng với hy vọng mong manh tìm được nhà cô Yến, nhưng ý trời không thuận. đành.

 

Cuộc tình tàn… cuộc tình quá đớn đau…

 

***

 

Hai năm trước, ông đạo về quê du lịch ngay trên quê hương mình. Lý do thăm bà con còn trên đảo là phụ. Lý do chính, đích thực trong lòng là ông đạo nhớ con chó Phú Quốc, nhớ người xưa nay đâu? Ông lại đi Lâm đồng trong hy vọng mong manh như người sắp chết đuối ngoài khơi bám vào rong biển! Biết là vô vọng nhưng cứ hy vọng như để khẳng định sự yếu đuối của lòng dạ con người. Những tâm sự trước lúc ông đi Việt Nam, tôi còn nhớ rõ lắm. Ông tâm sự với tôi trong bữa nhậu mừng sinh nhật ông đạo năm mươi. Chưa bao giờ ông quên hình ảnh cô Yến, càng gìa càng nhớ cô cũng là lý do ông không lập gia đình, chỉ mèo mả gà đồng theo nhu cầu sinh lý chứ tình yêu trong ông vẫn vẹn câu thề. Tôi hứng sảng hôm đó mà 'phang' ông đạo mấy câu: "Hôm nay sinh nhật nửa đời / năm mươi năm ấy lòng chơi vơi buồn / cớ chi phải rõ ngọn nguồn / nâng ly ta cạn nỗi buồn chơi vơi." Tôi say nên mới hỗn chứ nào gìơ có mà dám ra thơ trước mặt ông đạo, học ông không hết. Lúc men say túy lúy hay trà thơm lâng lâng… ông đạo dịch thơ đường cho mà nghe, hồn Lý Bạch u u trong đáy cốc, có khi tôi tưởng mình đang ngồi đối ẩm với Bạch Cư Dị tái sinh. Nhưng ông đạo bình dân trốn thuế Văn chương nghĩa là không ló mặt trên Văn đàn hải ngoại, ít ai biết thực tài của một cao nhơn ẩn dật ngoài vỉa hè và chỉ vui thú… chửi thề. Ông làm người khách lạ đi lên đi xuống những hôm trời thấp thật gần mà thơ phú lăng nhăng, tôi không quên tài xuất khẩu thành thơ của ông được bởi thực tài ông có. Phần Văn học chính quy của ông thì qúa cao thâm đến tôi chưa đủ nội công thẩm thấu; phần Văn học vỉa hè của ông lại qúa thừa dư chất phàm đến điếc con ráy người nghe.

 

Từ hôm trở lại Mỹ với con chó Phú Quốc bé bỏng, (ông tốn khá bộn tiền hối lộ cho phía Việt Nam; khá vất vả với phía Mỹ vì phải đưa con chó đi chích ngừa đủ thứ mới được vào Mỹ). Khi đâu vào đó, ông đặt tên cho nó là Yến. Những người ngoại quốc quen biết chúng tôi đều ưu ái gọi con chó là Yen. Với họ chỉ là một 'dog name' như những 'dog name' nhưng với tôi thì khác! Với ông chắc khác hơn nhiều. Những bữa trà rượu tàn, nghe ông hỏi nó: "muốn về chưa cưng?" Tôi không khỏi bồi hồi với người bạn mà tôi rất nể trọng. Hai năm thời gian đã trôi qua lặng lẽ, không nghe ông nhắc về cô Yến, nữa. Tình xưa, người xưa… ông trút vào con chó con ngổ nghịch. Nay nó phổng phao như chàng hiệp sĩ. Ngực nở, bụng thon, tướng mạo oai phong lẫm liệt nhờ cái bờm dài từ ót xuống sống lưng như bờm ngựa. Giống chó Phú Quốc là giống chó khôn và đẹp nhất trong những giống chó của Việt Nam, tôi đồng ý với ông điều đó. Ông đạo kể tôi nghe về sự lém lỉnh của con Yen: Nó theo ông dạo bộ buổi chiều trong khu phố nhà ông ở, thỉnh thoảng gặp nàng chó nào xinh xinh, nó lơ ông mà đi tán gái. Ông luận về tâm sinh lý động vật cho tôi nghe rất khoa học. Ngoài cái ăn, cái ở của hai động vật hai chân và bốn chân, sự còn lại rất ư bình đẳng. Ông nghĩ về việc con Yen đã trưởng thành. (Nuôi con chó. Ngoài việc không nghĩ đến đi mua trái dừa khô và gói ngũ vị hương, con người cũng cần nghĩ đến nhu cầu sinh lý của nó, mới là người biết nuôi chó vì nó cũng là một động vật hữu nhũ, có nhu cầu như con người.)

 

Từ đó, ngày chủ nhật thường thấy ông đạo mày râu nhẫn nhụi áo quần bảnh bao, dắt chó ra công viên tản bộ. Khi thấy một nàng chó nào xinh xinh, ông đạo gỉa lơ ngồi nghỉ mệt, đọc báo trên một ghế đá công viên. Con Yen hiểu ông như ông hiểu nó, nó tà tà đi tán gái rồi dắt thiên hương vào lùm hoang, bụi rậm… Khi nó hể hả quay về với chủ thì ông đạo đi nhậu với bạn bè, coi như xong một cuối tuần mà chủ và chó đều mỹ mãn. Lúc này, ông thường kể trên bàn nhậu về việc hai thầy trò mưu đồ ngoài công viên. Có khi ông chọn cho con Yen một nàng bé bé, xinh xinh. Con Yen không thèm tán mà đi tán một nàng vĩ đại over weight thuộc giống phàm ăn tục uống làm ông giận nó, treo gìo một tuần không cho ra công viên.

Đã thành thói quen, thông lệ, sáng chủ nhật là con Yen bấn xúc xích đòi đi nên sáng chủ nhật đừng gọi ông đạo, ông còn đưa con Yen đi hái hoa đồng nội. Muốn gọi ông phải sau ngọ.

 

Hôm tân gia ở nhà một ông bạn Vỉa hè, khác. Gọi mãi không được ông đạo trả lời điện thoại, gia chủ tức qúa nên phán rằng: "Tiên sư cái lão đạo Lù, lúc này bỏ nghề làm nước mắm. Hắn chuyển nghề đạo Dụ rồi các ông ạ!" Từ đó, ông đạo Lù được mang tên mới là ông đạo Dụ. Hai thầy trò ông đạo cứ lang thang ngoài những công viên đến con Yen thỏa mãn thì ông đạo mới nghĩ đến mình là đi tìm anh em, bạn bè mà cù cưa lon bia cuối tuần. Nhưng đi đêm mãi cũng có ngày gặp ma. Ông đạo thấy một nàng Marie dog quá xinh của bà Mỹ gìa vừa tới công viên. Nàng Marie trắng muốt, mắt long lanh đa tình, thắt nơ đỏ có cái chuông vàng bé bé, xinh xinh… ông thấy con Yen nhìn chảy rãi. Ông làm ngơ đọc báo, tay vô tình tháo khóa xích cổ cho con Yen chạy chơi! Ông vui thú chữ nghĩa của ông để con Yen không mắc cỡ, nó từ từ xa ông đi gù gái. Bà gìa Mỹ lim dim hưởng ánh nắng vàng nên cũng lơi tay xích nàng Marie. Thế là chuyện đến phải đến! Kẻ cắp gặp bà gìa. Con Yen sướng rơn ư ử, nàng Marie gặp hiệp sĩ Phú Quốc, hiệp sĩ Yen ngực nở, bụng thon, tình trường lịch duyệt… nàng ăng ẳng khúc thụy du. Bà gìa tỉnh cơn say nắng vàng, la bai bải. Ông đạo ngồi nghiền ngẫm sự đời gía được vô tư như chó! Bây gìơ, sự thể không đơn giản giữa kẻ cắp với bà gìa, này. Ông đạo xin lỗi giùm con Yen, tính đường “chẩu là thượng sách” nhưng bà gìa nhất định không chịu. Bà gọi cảnh sát.

 

Cô cảnh sát đến lập biên bản theo lời đời đề nghị của bà cụ, tay cô loay hoay cây viết mà chẳng biết viết gì? Trong đời cảnh sát, cô chưa từng lập biên bản kiểu này. Cuối cùng, cô thay mặt ông đạo, xin bà cụ bỏ qua cho con Yen. Bà cụ này kỳ thị chủng tộc cả với chó. Thứ nhất, bà bắt thường phải đưa nàng Marie dog đi Dog shop tắm gội lại, thắt nơ lại cho ra dáng tiểu thơ con nhà vì anh chàng Yen-Phú quốc bạo quá! Quần con nhỏ tơi bời hoa lá, sình đất tèm lem. Thứ hai, phải đưa đi Animal doctor vì bà không tin con Yen không bị bệnh gì! Nhất là bệnh thời đại! Ghê chưa?

 

Sau hai tuần mệt bở hơi tai và tốn tiền lãng nhách với bà cụ khó tính. Tưởng mọi chuyện đã êm vì kết qủa xét nghiệm của con Yen vô cùng lý tưởng. Nhưng họa vô đơn chí, tới đây bà cụ lại nghĩ ra chuyện động trời - nhỡ con chó cưng của bà có bầu thì sao? Bà thuộc phái chống phá thai mới là rắc rối cho chàng Yen háu gái.  Và quan trọng nhất là việc con chó cưng của bà lần đầu bị xâm hại tình dục. Chết cha ông đạo với cái ngàn vàng chó cái!

 

đường cùng. Ông cầu cứu cô cảnh sát cứu nguy bởi ông hy vọng hai người đàn bà Mỹ trắng nói chuyện với nhau sẽ dễ hơn ông. Bà cụ ghét con Yen và có vẻ kỳ thị luôn cả ông. Nhưng luật trời giành cho người đàn ông là đối diện với hai người nữ, người đàn ông hiền lành sẽ được người nữ đẹp hơn thương mến. Cô cảnh sát không những trò chuyện để đi đến bồi thường ngoài Tòa cho bà cụ chịu xé biên bản. Cô thương con Yen mạnh mẽ nên nghĩ chủ nó cũng vậy hay sao mà thương luôn ông đạo!

 

*

 

Tới đây. Kể chi nữa cho mất hay! Mà không kể thì làm sao kết thúc có hậu theo truyền thống văn chương vỉa hè? Nên miễn cưỡng soi mói vào đời tư ông đạo chút nha, tiên sinh.

 

Cô cảnh sát sống một mình nơi apartment vì ai dám cặp bồ với cảnh sát ngoài ông đạo? (Riêng tôi ư? đẹp cỡ nào mà dắt cái còng số 8 sau lưng là tôi tránh. Tôi không ớn cây súng kè kè bên hông vì ở Mỹ không phải muốn bắn ai thì bắn bừa như bên Trung đông. Nhưng còng ẩu thì có à nha!) Trở lại với ông đạo. Trước là ông đưa con Yen đến thăm con cưng của cô cảnh sát cũng không kém phần nhan sắc so với nàng Marie dog đã làm hai người xa lạ thành quen, rồi thân, rồi… hai con chó quấn quýt với nhau ngoài sân thì hai chủ nhân không quấn lấy nhau trong nhà sao đặng! Bản năng gốc trong ai chả có trước đồng loại. Cô không ngại con chó cưng của cô có bầu vì cô thương con Yen, nhưng ông đạo ngại cô cấn thai thì bỏ bu vì cô không thích bài tháng sáu trời mưa, trời mưa không dứt, trời không mưa anh cũng mặc áo mưa. Ông đạo dở khóc dở cười.

 

PHAN


main menu